Lịch sử Vương_quốc_Sarawak

Thời kỳ đầu

James Brooke là nhân vật khai quốc.

Vương quốc Sarawak do James Brooke thành lập, ông là một nhà thám hiểm người Anh.[6] Sau khi phục vụ trong Chiến tranh Anh-Miến thứ nhất và bị thương nặng trong giao tranh,[7][8] Brooke trở về Anh vào năm 1825 để dưỡng thương, song không thể trở lại Ấn Độ đúng thời hạn.[9] Do nghỉ phép quá lâu nên chức vụ của ông trong quân đội bị mất, song ông được nhận một khoản trợ cấp từ chính phủ.[9][10][11] Ông tiếp tục từ Ấn Độ sang Trung Quốc để cải thiện sức khỏe của mình.[12]

Trên đường đến Trung Quốc vào năm 1830, ông trông thấy các đảo thuộc quần đảo Mã Lai, là nơi người châu Âu nói chung còn chưa biết đến.[12] Ông được truyền cảm hứng từ các câu chuyện phiêu lưu về thành công của Công ty Đông Ấn Anh, đây cũng là thể chế mà cha ông từng phục vụ. Ông đặc biệt ấn tượng trước các nỗ lực của Stamford Raffles nhằm bành trướng ảnh hưởng của công ty tại quần đảo Mã Lai,[13][14][15] ông mua một chiếc thuyền buồm mang tên là Royalist với 30.000 bảng được cha để lại.[7][8] Ông tập hợp một thủy thủ đoàn cho tàu, bắt đầu đi sang Viễn Đông vào ngày 27 tháng 10 năm 1838.[16] Đến tháng 7 năm 1839, ông đến được Singapore và tiếp xúc với một số thủy thủ người Anh từng bị đắm tàu và nhận được giúp đỡ từ Pengiran Raja Muda Hashim, chú của Sultan Brunei Omar Ali Saifuddin II.[9][17]

Brooke ban đầu lên kế hoạch đến vịnh Marudu tại phần tây bắc Borneo song vị toàn quyền của Anh tại Singapore yêu cầu ông đi cảm ơn Raja Muda Hashim tại phần tây nam Borneo.[9][18][19] Tháng sau, ông đến bờ biển phía tây của đảo vào đến ngày 14 tháng 8 năm 1839, ông cập bến bên bờ sông Sarawak và gặp Hashim để chuyển thông điệp.[18] Raja nói với Brooke rằng ông ta hiện diện trong khu vực là nhằm kiềm chế một cuộc khởi nghĩa chống lại Vương quốc Brunei, có nguyên nhân từ các chính sách đàn áp của Pengiran Indera Mahkota, một người họ hàng của Sultan.[17][20][21] Mahkota trước đó được Sultan phái đi giữ độc quyền antimon trong khu vực; kết quả là gây ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người Mã Lai tại địa phương và làm tăng nỗi thất vọng của người Dayak lục địa bản địa, nhóm này bị buộc phải làm việc trong các mỏ khai khoáng trong khoảng 10 năm.[22][23] Cũng có cáo buộc rằng cuộc khởi nghĩa chống lại Brunei được giúp đỡ từ các thế lực lân cận là Vương quốc Hồi giáo SambasĐông Ấn Hà Lan vì họ muốn thiết lập các quyền lợi kinh tế đối với antimon.[24] Hashim nỗ lực nhằm ngăn chặn khởi nghĩa song vô ích, ông ta tìm kiếm giúp đỡ trực tiếp từ Brooke.[19]

Trước lời đề nghị này, một lực lượng được lập nên gồm người bản địa tại địa phương và do Brooke lãnh đạo, lực lượng này tạm thời ngăn được cuộc khởi nghĩa.[21] Brooke có phần thưởng là một lượng lớn antimon từ các mỏ tại địa phương và được ủy quyền tại sông Sarawak.[19] Kể từ đó, Brooke bị lôi kéo vào các chiến dịch của Hashim nhằm khôi phục trật tự trong khu vực.[25] Brooke trở về Singapore và dành thêm sáu tháng đi dọc bờ biển của quần đảo Celebes trước khi quay lại Sarawak vào ngày 29 tháng 8 năm 1840.[16][26]

Thành lập

Người Dayak sau này đi theo Brooke, và trở thành lực lượng trung thành nhất với vương quốc cùng với người Mã Lai địa phương tại Sarawak.[27][28]

Khi ông quay lại Sarawak, cuộc khởi nghĩa chống lại quyền cai trị của Brunei vẫn tiến triển. Ông thành công trong việc trấn áp hoàn toàn cuộc khởi nghĩa và ân xá cho phiến quân được gia nhập phe của mình, cũng như cho họ giữ chức vụ hành chính song bị hạn chế quyền lực.[29] Hashim ban đầu từ chối ân xá và muốn hành quyết toàn bộ các phiến quân, song Hashim bị Brooke thuyết phục do ông giữ một vai trò lớn trong việc trấn áp này.[30] Nhằm đổi lấy việc Brooke tiếp tục ủng hộ Vương quốc Brunei và nộp tô 500 bảng Anh, ông được Vương quốc Brunei trao cho khu vực Kuching;[25][31] khu vực sau này trở thành tỉnh lớn thứ nhất Sarawak.[32] Tuy nhiên, Hashim bắt đầu cân nhắc cẩn thận về việc trao lãnh thổ cho Brooke, nghi ngờ này do Mahkota thổi bùng lên do quyền lực của người này trong khu vực bị tước mất để trao cho Brooke.[26] Điều này khiến Hashim liên tục trì hoãn công nhận nhượng địa và khiến Brooke tức giận. Ngày 24 tháng 9 năm 1841, Brooke cùng với thuyền Royalist được vũ trang đầy đủ đã lên bờ và tới phòng khách của Hashim và yêu cầu ông ta thương lượng. Hashim có ít lựa chọn và đổ phần lớn tội trạng cho Mahkota rồi tuyên bố Brooke là Rajah. Brooke ban hành các luật mới cho lãnh thổ, theo đó cấm chỉ chế độ nô lệ, săn đầu người và cướp biển;[33] và đến tháng 7 năm 1842, việc bổ nhiệm này được Sultan Omar Ali Saifuddin II xác nhận.[26]

Quốc kỳ đầu tiên của vương quốc, từ năm 1841 đến năm 1848, thể hiện Thập tự Thánh George.Cướp biển tấn công một tàu của Brooke vào năm 1843.

Nhằm ngăn ngừa có thêm xung đột với Brunei, Brooke hy vọng cải cách chính quyền của vương quốc này và lập nên một chính phủ thân Anh thông qua Hashim và anh/em của ông ta là Pengiran Badruddin. Đến tháng 10 năm 1843, Brooke đưa hai người đến Brunei, cùng với Đô đốc Edward Belcher của Hải quân Hoàng gia Anh.[34] Ông đề nghị cho Hashim thay thế chức vụ Bendahara của Pengiran Yusof, và yêu cầu Sultan cam kết trấn áp nạn hải tặc trong lãnh địa của mình, cũng như nhượng lại đảo Labuan cho người Anh (dù chính phủ Anh không yêu cầu điều này).[34] Vị thế Rajah và một lãnh sự cho người Anh của Brooke vào khi đó vẫn là vấn đề gây tranh luận tại Anh do ông không được chính phủ Anh công nhận để đại diện cho thần dân Anh.[35][36] Một cách gián tiếp, Brooke đã can dự vào tranh chấp nội bộ triều đại của Brunei.[37] Kể từ năm 1844, Brooke tích cực giúp đỡ trấn áp nạn hải tặc tại các vùng duyên hải tại phần phía tây và phía bắc của Borneo cùng với Đô đốc Henry Keppel;[38] trong quá trình trấn áp hải tặc họ đã đương đầu với Mahkota, nhân vật này khi đó lập liên minh với một thủ lĩnh cướp biển người Dayak Biển, Mahkota bị bắt trong cùng năm.[39][40]

Bức phác họa của Pengiran Raja Muda Hashim, một bằng hữu thân cận của Brooke, k. 1846.

Hashim thành công trong việc thiết lập một vị thế hợp pháp tại thị trấn Brunei để trở thành Sultan kế tiếp sau khi đánh bại được thế lực cướp biển dưới quyền Yusof.[41][42] Yusof là một quý tộc được Sultan yêu mến, và với chiến thắng của Hashim thì con trai của Sultan Omar Ali Saifuddin II mất cơ hội kế vị.[42][43] Mahkota trở về Brunei vào năm 1845 sau khi bị bắt tại Sarawak vào năm 1844 và trở thành cố vấn của Sultan khi Yusof bị xử tử. Ông ta thuyết phục Sultan ra lệnh hành quyết Hashim,[44] sự hiện diện của Hashim trở nên không được hoan nghênh trong vương thất, đặc biệt là do quan hệ thân thiết của ông với Brooke vốn có lợi cho chính sách của Anh.[45]

Theo lệnh của Sultan, Hashim và anh/em là Badruddin cùng với gia đình của họ bị ám sát vào năm 1846.[44][45][46] Brooke phẫn nộ khi biết tin, ông tổ chức một đoàn viễn chinh đi báo thù cho cái chết của Hashim cùng với giúp đỡ của Cochrane từ Hải quân Hoàng gia.[47]. Ngày 8 tháng 7, họ khai hỏa từ mọi vị trí vào thủ đô Brunei với ít thiệt hại.[47] Mahkota và Sultan rút về thượng nguồn trong khi hầu hết dân chúng chạy trốn, còn lại Pengiran Mumin vốn là một đối thủ của con trai Sultan.[44][47] Người Anh tàn phá các công sự trong thị trấn và mời dân chúng trở về, còn Sultan vẫn trốn trong rừng rậm. Brooke ở lại Brunei với Đô đốc Rodney Mundy trong khi đội viễn chinh chủ yếu vẫn tiếp tục sứ mệnh của họ nhằm trấn áp nạn cướp biển tại miền bắc Borneo.[47]

Brooke cuối cùng thuyết phục được Sultan trở về thủ đô, tại đây Sultan rốt cuộc lấy làm tiếc về vụ giết Hashim và gia đình bằng một bức thư tạ lỗi đến Nữ hoàng Victoria.[48] Sultan công nhận thẩm quyền của Brooke đối với Sarawak và quyền lợi khai mỏ trên khắp lãnh thổ, không yêu cầu ông phải trả bất kỳ khoản cống nạp nào cũng như trao đảo Labuan cho người Anh.[48] Brooke rời khỏi Brunei và để Mumin phụ trách cùng với Mundy canh phòng Sultan cho đến khi chính phủ Anh có quyết định cuối cùng về việc nhận đảo. Sultan cũng đồng ý cho phép quân đội Anh trấn áp toàn bộ nạn cướp biển dọc bờ biển Borneo.[48]

Những năm sau

Quốc kỳ thứ nhì của vương quốc, từ năm 1848 đến năm 1870.Một thuyền của Anh được đặt tên là Rajah of Sarawak, theo James Brooke (Samuel Walters vẽ, k. 1850).

Sang năm 1847, Brooke yêu cầu Sultan của Brunei ký kết một hiệp ước khác nhằm ngăn chặn vương quốc này tham gia bất kỳ hiệp định nhượng địa nào với bất kỳ thế lực ngoại quốc nào khác, đặc biệt là sau chuyến thăm của USS Constitution vào năm 1845.[48] Tuy nhiên, chính sách của Hoa Kỳ khi đó không có ý định thiết lập bất kỳ sự hiện diện vững chắc nào tại châu Á và Thái Bình Dương.[49] Đến năm 1850, Hoa Kỳ công nhận vương quốc của Brooke là một quốc gia độc lập.[50] Sultan Omar Ali Saifuddin II mất vào năm 1852 và người kế vị là Mumin, chứng tỏ Brooke thành công khi nỗ lực lập nên một chính phủ thân Anh tại Brunei.[51] Sultan sau đó nhượng lại các khu vực Saribas và Skrang cho Brooke vào năm 1853 do xung đột với cướp biển, vùng này sau đó trở thành tỉnh thứ hai.[32][52]

Ba cuộc khởi nghĩa lớn nổ ra dưới quyền lãnh đạo của Rentap (1853),[53] Liu Shan Bang (1857)[54][55]Syarif Masahor (1860)[56] đã làm lung lay chính quyền của Rajah, cộng thêm điều kiện kinh tế đình đốn lúc bấy giờ đã khiến cho Brooke mắc nợ.[57] Ông chuyển sang kế hoạch nhượng lại vương quốc của mình cho người Anh để giải quyết số nợ; ý tưởng này được một số nghị viên và doanh nhân Anh ủng hộ, song nó bị Thủ tướng Edward Smith-Stanley bác bỏ do lo ngại rằng việc áp dụng một hệ thống thuế của Anh sẽ gây sửng sốt trong cư dân so với thi hành hệ thống thuế riêng của họ dưới quyền Rajah.[58] Brooke sau đó nghĩ đến việc bán vương quốc của mình cho Bỉ, Pháp, Nga hoặc giao lại cho Brunei hoặc cho các thế lực châu Âu khác thay vì cho thực dân Hà Lan láng giếng vốn đã sẵn sàng chiếm vương quốc của ông.[58] Ý định của Brooke bị các vị thống đốc Anh lân cận không ưa, như Thống đốc Labuan Hennessy bày tỏ cảm giác rằng dù tôn trọng cao độ Rajah song chỉ nhìn nhận vương quốc này là một quốc gia chư hầu của Brunei.[59]

Trước khi trấn áp nạn cướp biển, một trận chiến lớn với cướp biển Moro từ miền nam Philippines diễn ra vào giữa tháng 11 năm 1862.[60] Năm 1864, Anh bổ nhiệm một lãnh sự đến Sarawak và công nhận vương quốc,[50][61] còn Hà Lan thì từ chối công nhận.[62] Sau khi được Anh công nhận, Brooke bành trướng vương quốc của mình bằng cách chiếm lãnh thổ của Brunei.[63] Năm 1861, ông giành được lưu vực sông Rajang rộng lớn, khu vực này sau đó trở thành tỉnh thứ ba.[32][52] Quá trình bành trướng tiếp tục sau khi ông mất vào năm 1868; người kế vị ông là cháu trai Charles Brooke, con của em gái ông.[64][65]

Dưới chính quyền của Charles, nền kinh tế của vương quốc tăng trưởng nhanh chóng, đặc biệt là sau khi phát hiện được dầu mỏ, du nhập cây cao su, và xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng, chúng là ưu tiên chính của ông để bình ổn điều kiện kinh tế và giảm nợ công.[66][67][68] Ông khuyến khích người Hoa nhập cư để thúc đẩy kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp;[69][70] hầu hết trong số họ định cư quanh Kuching (chủ yếu là người Mân Nam và Triều Chiêu), Sibu (chủ yếu là người Phúc Châu) và Sri Aman (chủ yếu là người Triều Châu).[71][72] Charles được tín nhiệm và tôn trọng nhờ công bằng và nghiêm ngặt, song ông không được lòng dân Mã Lai địa phương nhiều như bác mình, trong khi đó ông là một người bạn thân thiết đối với người Dayak.[73] Sarawak thịnh vượng dưới quyền cai trị của ông và vương quốc không tìm kiếm sự bảo hộ từ bất kỳ cường quốc châu Âu nào, song các yêu cầu người Anh bảo hộ vào năm 1869 và 1879 bị bác bỏ.[73] Charles tiếp tục tìm kiếm sự bảo hộ từ người Anh đối với an ninh mở rộng trên bờ biển phía tây của Borneo, người Anh cuối cùng quyết định trao vị thế lãnh thổ bảo hộ vào ngày 14 tháng 6 năm 1888.[5][73] Ông cai trị Sarawak cho đến khi mất vào năm 1917, người cai trị là con trai ông, Charles Vyner Brooke.[74]

Chiến tranh thế giới thứ hai và suy thoái

Nhà máy lọc dầu Lutong và các khi chứa bị người Anh phá hủy trước khi quân Nhật tiến đến.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đế quốc Nhật Bản bắt đầu bành trướng phạm vi của họ tại châu Á và Thái Bình Dương.[75] Vyner nhận thức được mối đe dọa ngày càng lớn và bắt đầu tiến hành các cải cách.[76] Theo hiệp định bảo hộ, Anh chịu trách nhiệm về phòng thủ của Sarawak.[77] Tuy nhiên, người Anh không có đủ nguồn lực để bảo vệ một cách hữu hiệu do hầu hết lực lượng của họ được triển khai đến mặt trận tại châu Âu chống Đức-Ý. Vấn đề phòng thủ vương quốc dựa vào một trung đoàn Ấn Độ duy nhất là Trung đoàn Punjab 2/15 cùng với lực lượng địa phương của Sarawak và Brunei.[77] Do Sarawak có một lượng đáng kể các nhà máy lọc dầu tại MiriLutong, người Anh lo ngại rằng các nguồn cung này sẽ rơi vào tay người Nhật và do đó chỉ thị cho bộ binh tiến hành chính sách tiêu thổ.[77][78]

Lễ đầu hàng chính thức của người Nhật trước Lực lượng Đế quốc Úc (AIF) trên khoang tàu HMAS Kapunda tại Kuching vào ngày 11 tháng 9 năm 1945.

Ngày 16 tháng 12 năm 1941, một lực lượng hùng mạnh của Hải quân Nhật Bản đi trên tàu Japanese destroyer Sagiri từ vịnh Cam Ranh đến Miri.[78][79] Quân đội Nhật Bản sau đó phát động không kích vào Kuching vào ngày 19 tháng 12, ném bom sân bay của thị trấn và bắn hàng loạt cư dân trên đường phố thị trấn.[80] Cuộc tấn công tạo ra nỗi hoảng sợ và khiến cư dân di tản đến các khu vực nông thôn.[81] Một tàu ngầm của Hà Lan Bản mẫu:HNLMS đối phó được với người Nhật đến từ Miri song khi tàu Japanese destroyer Shirakumo đến cùng các tàu khác thì chúng chiếm được thị trấn vào ngày 24 tháng 12.[82] Từ ngày 7 tháng 1 năm 1942, các binh sĩ Nhật Bản tại Sarawak vượt qua biên giới sang Borneo thuộc Hà Lan và tiến tới Bắc Borneo. Trung đoàn Punjab 2/15 buộc phải triệt thoái sang Borneo thuộc Hà Lan và sau đó đầu hàng vào ngày 9 tháng 3 sau khi hầu hết quân Đồng Minh tại Java đầu hàng.[80] Một chiếc tàu hơi nước của vương quốc mang tên SS Vyner Brooke bị đắm trong nhiệm vụ sơ tán các y tá và binh sĩ bị thương sau khi Singapore thất thủ, hầu hết thủy thủ đoàn sống sót bị thảm sát trên đảo Bangka.[83]

Do không có lực lượng phòng không, vương quốc cũng như phần còn lại của đảo thất thủ trước người Nhật, còn Vyner đến tị nạn tại Úc.[84] Nhiều binh sĩ Anh và Úc bị bắt giữ sau khi Malaya và Singapore thất thủ đã bị đưa đến Borneo và bị giam giữ trong thân phận tù binh chiến tranh (POW) trong trại giam Batu Lintang thuộc Sarawak và trại giam Sandakan thuộc Bắc Borneo. Nhà cầm quyền quân sự Nhật Bản đặt phần phía nam Borneo dưới quyền của hải quân, còn lục quân chịu trách nhiệm quản lý phần phía bắc.[85] Nằm trong chiến dịch của Đồng Minh nhằm tái chiếm các thuộc địa của họ tại phương Đông, lực lượng Đồng Minh được phái đến Borneo trong chiến dịch Borneo nhằm giải phóng đảo. Lực lượng Đế quốc Úc (AIF) giữ một vai trò quan trọng trong sứ mệnh này. Đơn vị đặc biệt Z của Đồng Minh cung cấp tình báo và các thông tin khác từ người Nhật có thể tạo thuận lợi đến AIF đổ bộ. Hầu hết các thị trấn lớn của Sarawak bị ném bom trong giai đoạn này.[81] Chiến tranh kết thúc vào ngày 15 tháng 8 năm 1945 sau khi Nhật Bản đầu hàng và quyền cai quản Sarawak thuộc về Chính quyền quân sự Anh (BMA) kể từ tháng 9. Vyner trở về để quản lý lãnh thổ song quyết định nhượng toàn bộ vương quốc cho chính phủ Anh để làm một thuộc địa hoàng gia vào ngày 1 tháng 7 năm 1946 do thiếu nguồn lực để đáp ứng chi phí tái thiết.[86][87][88]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Vương_quốc_Sarawak http://searail.malayanrailways.com/Sarawak/Sarawak... http://seeds.theborneopost.com/2015/04/05/the-bau-... http://www.theborneopost.com/2011/09/16/a-look-at-... http://www.theborneopost.com/2011/09/16/chronology... http://www.theborneopost.com/2011/09/16/under-the-... http://www.theborneopost.com/2013/07/14/wallace-an... http://www.theborneopost.com/2016/04/03/tracing-in... http://www.theborneopost.com/2017/04/23/nibbling-a... http://www.themalaymailonline.com/malaysia/article... http://www.thestar.com.my/news/community/2007/03/1...